
Học sinh Trường phổ thông dân tộc nội trú Lục Nam
Ngày ấy, mình chỉ là một cậu bé gầy gò, quần áo bạc phếch, đôi dép nhựa lẹp xẹp, vai khoác chiếc cặp nặng trĩu sách vở. Mới lớp 6 thôi, mình đã phải rời làng quê, rời vòng tay bố mẹ, đi học nội trú xa nhà. Người ta bảo tuổi ấy còn quá nhỏ để xa mái ấm, nhưng với mình, đó lại là bước khởi đầu của một hành trình dài tự lập.
Ký túc xá trường nội trú không hề dễ sống. Một căn phòng có 8 đứa, tiếng ồn ào, mùi mồ hôi, những bữa cơm tập thể. Đêm mùa đông lạnh cắt da, mình co ro trong tấm chăn mỏng, đôi mắt dán vào bóng tối và lặng lẽ nuốt nước mắt. Nhớ nhà, nhớ bữa cơm có bát canh rau tập tàng của mẹ, nhớ giọng nói trầm ấm của bố. Nên mỗi tối vào những giờ tự học trên lớp những đứa bé lớp 6 lại khóc và như một hiệu ứng lan truyền, từ một đứa khóc rồi đến cả lớp khóc. Mình không khóc, cảm giác nhớ nhà cũng trào dâng nhưng mình không thể khóc, phần vì sợ bạn bè trêu cười, một phần nghĩ mình phải vượt qua.

Những buổi sáng mùa đông, trời chưa kịp sáng rõ, tiếng trống báo thức, cả trường dậy tập thể dục. Vệ sinh cá nhân xong, tiếng kẻng ăn sáng đã vang lên. Nhớ lại, những năm cấp 2, mình đứng cao ngang thành giếng. Mà mùa hè giếng thường hết nước sớm. Không có máy bơm nước những đứa trẻ lớp 6 phải đứng một chân lên thành giếng, một chân ở trụ bơm đã hỏng ngay cạnh để múc từng gáo nước để vội đánh răng rửa mặt, tắm giặt.
Sau bữa sáng, tiếng trống trường báo hiệu giờ học bắt đầu. Chúng mình bật dậy, vội vàng mặc quần áo, chạy ra sân xếp hàng. Không có ai luôn bên cạnh nhắc nhở như khi ở nhà, tất cả chúng mình phải học cách tự lo. Quần áo rách thì tự khâu, dép đứt thì tự tìm dây buộc lại. Lâu dần, mình quen, và trong sự cô đơn ấy, một thằng bé bắt đầu học được chữ “tự lập” – bài học đầu tiên quan trọng nhất của cuộc đời.
Ngày cuối tuần, khi được về thăm nhà, mình chạy như bay dọc con đường đất, tim đập thình thịch khi nhìn thấy mái nhà nhỏ nơi bố mẹ vẫn ngồi chờ. Cơm nhà chẳng có gì ngoài đĩa cá khô, bát rau luộc, nhưng với mình, đó là bữa ăn ngon nhất. Bố mẹ nhìn mình, ánh mắt vừa thương vừa lo. Bố thường nói:
– Con cố gắng học giỏi nhé, chỉ có học mới thoát khỏi cái nghèo này thôi.
Mình gật đầu, lời hứa ấy in sâu vào tim.

Ở trường, bạn bè nhiều đứa có áo mới, bút đẹp, còn mình chỉ có vài món đồ cũ kỹ. Nhiều lúc thèm khát một thứ nhỏ bé cũng không dám mở miệng xin. Nhưng chính những thiếu thốn ấy rèn cho mình một sức mạnh lạ kỳ: mình biết nhẫn nhịn, biết yêu thương cha mẹ nhiều hơn, và trên hết là biết nỗ lực nhiều hơn.
Học nội trú từ lớp 6 đã cho mình một nền tảng khác biệt. Mình sớm biết rằng cuộc đời này không ai lo cho mình mãi, muốn sống được thì phải tự đứng trên đôi chân của chính mình. Tinh thần tự lực tự cường cũng hình thành từ những năm tháng học tập tại 2 ngôi trường nội trú huyện và tỉnh.
Những đêm dài trong ký túc, khi tiếng bạn bè thì thầm đã lắng xuống, mình lại nhớ cha mẹ và anh em. Nhưng mình không cho phép bản thân yếu lòng, bỏ cuộc. Trong đầu lúc nào cũng vang lên một giọng nói: “Mình phải nỗ lực vươn lên, phải học thật giỏi để bố mẹ tự hào, phải thoát ly khỏi đồng ruộng.”
Tại đây, chừng một tháng, bọn mình được nghỉ một vài hôm về gia đình. Nhà trường thông báo cho gia đình lên đón. Có lần, vì nhà xa, mình không được bố mẹ đón kịp. Một mình lủi thủi đứng chờ ở ký túc xá khi các bạn đã được bố mẹ đón về hết. Đến trưa muộn, mình đứng chờ ở hành lang ký túc. Khi bố vừa đến thì mình rơm rớm nước mắt. Bố ôm vai mình động viên. Có một điều mình nhận ra từ bố mẹ là dù vất vả xoay sở nuôi 4 con ăn học như thế nào cũng luôn quan tâm việc học của các con và luôn động viên, ghi nhận và khen ngợi những tiến bộ nhỏ trong học tập của mấy anh em.
Mùa đông đến, gió lạnh táp vào mặt, bàn chân tê cứng khi mỗi sáng dậy tập thể dục. Mình chỉ lầm lũi bước đi, như thể đã quen với việc tự mình đối mặt với mọi thứ. Sau này, nghĩ lại, mình mới thấy: chính những bước đi cô đơn ấy đã hun đúc nên ý chí không bao giờ gục ngã trước khó khăn của mình.
Tại ngôi trường nội trú huyện mình đam mê 3 thứ: đánh trống, chơi cờ vua và đá cầu. Sau thời gian tập luyện, mình được nhà trường giao cho việc đánh trống báo thức, các tiết học, chào cờ nên ý thức dậy sớm, đúng giờ của mình cao hơn. Cờ vua thì mình đại diện lớp thi đấu nhưng chỉ đứng thứ 2 ở trường, sau một bạn học giỏi toán, khi lên cấp 3 thì hai đứa học cùng lớp. Bạn ấy thông minh hơn nhưng có thể do suy nghĩ ấy nên hay chủ quan và không nỗ lực chăm chỉ liên tục. Khi lên đại học thì cậu ấy bỏ dở giữa chừng việc học đại học xây dựng, phiêu bạt vào miền nam, công việc cũng bấp bênh. Đá cầu thì mình được vào đội tuyển cầu để tập luyện nhưng mình quá nhỏ bé, chỉ tập luyện ở trường thôi, không được đi thi đấu.
Tuổi thơ xa nhà, không nhung lụa, không được bố mẹ ở bên nhưng với mình thì đem lại nhiều giá trị. Trong khi nhiều đứa bạn vẫn còn được mẹ cha chăm chút từng bữa ăn, từng giấc ngủ, thì mình đã học cách xoay xở với mọi thiếu thốn. Và từ đó, một niềm tin âm thầm lớn dần: “Mình phải tự lực vươn lên, phải tự lực, tự cường và vượt qua tất cả !”.
Có lẽ, nếu không trải qua giai đoạn nội trú từ lớp 6 đến lớp 12 ấy, mình sẽ chẳng bao giờ có được sự tự lập mạnh mẽ như hôm nay. Nó giống như một khóa rèn luyện khắc nghiệt của cuộc đời, nơi một thằng bé yếu ớt được tôi luyện để trở thành người đàn ông biết đứng vững giữa giông bão cuộc đời.

Mỗi lần nhìn lại, mình lại thấy biết ơn. Biết ơn những ngày đông lạnh buốt không có đủ chăn ấm, biết ơn những bữa cơm tập thể đạm bạc, biết ơn cả những đêm dài nhớ nhà đến rơi nước mắt. Tất cả đã dạy mình bài học đầu tiên của cuộc đời: tự lực. Và từ nền tảng ấy, mình bước vào những chặng đường tiếp theo – nơi thử thách còn lớn hơn, nhưng mình đã không còn run sợ nữa.
Ngôi trường nội trú Lục Nam những năm mình học thực sự là một trong nhưng môi trường học tập chất lượng. Mỗi quý thi khảo sát một lần toàn trường. Sau khảo sát, phân loại học sinh, chọn học sinh giỏi. Khoá mình học thì chỉ lớp 8 và lớp 9 thi học sinh giỏi cấp huyện và tỉnh.
Và mình bắt đầu được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi môn sinh học, hoá học và địa lý;
Một buổi chiều, khi mình đang chơi ở ký túc xá thì thầy giáo chủ nhiệm – thày Nguyễn Hoàng Lương gọi lên phòng thày. Thày nói: Bài kiểm tra 45 phút môn sinh học của em đạt kết quả tốt (8 điểm), cao nhất khoá. Thày chọn em vào đội tuyển học sinh giỏi môn sinh học nhé.
– Vâng ạ, mình trả lời.
Và thế là hành trình học tập kiến thức sinh học bắt đầu chuyên sâu hơn và cũng là nền móng đầu tiên trên hành trình trở thành bác sĩ như bây giờ.
Năm lớp 8, mình thi đạt giải Nhì môn sinh học cấp huyện – cao nhất trường. Và sau đó, mình được sang trường khác để ôn thi học sinh giỏi môn sinh học để thi cấp tỉnh. Khi đi thi tỉnh, mình được ở Khách sạn tỉnh Bắc Giang và đi thi ở trường chuyên Bắc Giang, kết quả năm ấy mình được Giải Ba cấp tỉnh. Lên lớp 9 thi huyện mình được giải Ba nhưng thi tỉnh mình lại được Giải Nhì.
Môn địa lý, không phải môn mình chú tâm nhiều nên thi cấp huyện mình chỉ được giải Khuyến khích nên không tiếp tục ôn cấp tỉnh nữa.
Giai đoạn học Trường nội trú Lục Nam, kỷ niệm buồn sâu sắc nhất với mình là sự ra đi đột ngột của Người Thày đáng kính và cũng là Người đỡ đầu, Người giáo viên chủ nhiệm tuyệt vời của lớp mình – thày Nguyễn Hoàng Lương. Thày mất trong một tai nạn giao thông. Cả lớp và cả trường nhận được tin đều vỡ oà khóc. Mình nhớ như in, trường mình, học sinh khóc rất nhiều trong cả tuần mỗi lần lên lớp lại khóc. Khi đi viếng, thày cô hướng dẫn học sinh cả trường xếp hàng lần lượt đến viếng Thày.
Thày đã tặng mình một cuốn sách sinh học nâng cao dành cho học sinh giỏi mà mình vẫn giữ tới giờ. Mình có viết trong đó là: Em sẽ tiếp tục con đường học tập sinh học của Thày.
Một điểm đặc biệt mà tới giờ bác sĩ biết được đó là thày Lương không những giỏi về chuyên môn mà kỹ năng lãnh đạo, hiểu thấu tâm lý học sinh nữa. Bạn nghịch nhất lớp mình lúc ấy tên là Chuyền, thường xuyên bỏ học, trốn đi chơi, kết quả học tập bết bát. Sau bao nhiêu giáo viên chủ nhiệm vẫn không thể uốn nắn được bạn ấy cho đến khi…thày Lương làm chủ nhiệm lớp. Bạn ấy như lột xác, luôn đến lớp học đúng giờ và không có hiện tượng trốn học nữa.
Mình không biết thày đã nói gì với bạn mà bạn có động lực học tập khác hẳn giai đoạn trước. Kết quả học tập tiến bộ, cả lớp và thày cô các môn khác cũng đều ghi nhận, chỉ tiếc là sau một thời gian gắn bó thân thiết ngắn ngủi, thày đã từ biệt các con.
Giờ ngồi viết những dòng tâm trạng nước mắt này, mình cũng chỉ muốn tri ân công lao của Thày và muốn nói với Thày: “Con biết ơn Thày sâu sắc”. Câu chuyện buồn sâu lặng ấy dần dần cũng vơi đi.
Giáo viên sinh học tiếp theo của lớp mình là cô giáo Nguyễn Thị Đào, lúc ấy cô về nhận công tác thay thày Lương, cô mới ra trường. Cô cũng có thời gian làm chủ nhiệm lớp mình. Một cô giáo tâm huyết, hiền dịu và đặc biệt yêu thương học trò. Cô tiếp tục ôn luyện dạy bảo mình trong cuộc sống và việc thi học sinh giỏi lớp 9. Về trường nhân kỷ niệm 20 năm ngày trở về, cô ôm học trò khóc mãi không dứt, cô nói: “Học trò của cô, con đã trưởng thành rồi !”.

Quay trở lại câu chuyện ôn và thi học sinh giỏi cấp tỉnh năm nào, kết quả thi học sinh giỏi của mình khiến nhà trường và gia đình mừng lắm. Tự hào là dịp nghỉ hè, huyện Lục Nam tổ chức gặp mặt các học sinh giỏi, bố mình hồ hởi đưa mình lên Hội trường của huyện để tuyên dương. Và khi nhận Giấy khen, Chủ tịch huyện đã ký và trực tiếp trao tặng. Lúc ấy, ngoài giấy khen, mình được thưởng 180 ngàn đồng (năm 2002). Sau khi kết thúc, bố đưa mình sang gặp và khoe với ông – bố mình gọi bằng chú ruột, đang làm Giám đốc Kho bạc huyện, cả gia đình, dòng họ đều tự hào về mình.
Nhớ lại, lúc còn học lớp 6, lớp 7, cuối tuần, mình xin thày cô ra nhà ông bà ở gần trường chơi. Sáng ngủ dậy, mình quét nhà và rửa chén, rửa bát cho ông bà. Ăn uống thì sạch sẽ. Nên ông bà mỗi dịp về quê thăm cụ là lại khoe cháu Điển ngoan lắm… Cụ bà nhà mình tuy tuổi cao nhưng rất minh mẫn và sắc sảo, đặc biệt là mắt sáng nhìn người rất tinh tường. Cụ nhận định về ai, tương lai như thế nào thì đúng như vậy.
Nên các con cháu rất kính Cụ. Cụ nằm dưới nhà ông nội nhưng do đau lưng không đi lại được nên nằm tại chỗ. Mỗi khi nghe tin cháu về là lại gọi mình xuống hỏi chuyện học tập, sống ở trường ăn có đủ no không và bao giờ cũng vậy… cuối câu chuyện là cụ cho tiền.
Cụ có tiền để dành và các con, cháu biếu. Mỗi lần cụ cho tiền cũng đủ tiền mình ăn quà mỗi dịp cuối tuần cả tháng ấy chứ.
Cụ đã từng nuôi dạy 5 người con, trong đó, 4 người con được ăn học: con cả là một bà, học xong phổ thông thì đi lập gia đình (bà rất quan tâm con cháu, trai cả là ông nội mình học kỹ sư công nghiệp, ông thứ hai học tài chính làm đến Giám đốc Kho bạc huyện, ông thứ ba thì đi bộ đội, ông út thì đi bộ đội và học trung cấp.
Đến bây giờ, hình ảnh cụ luôn hiển thị rõ nét trong tâm trí với những lời dặn dò sâu sắc. Điều đáng tiếc nhất với mình là khi Cụ tặng một vòng đeo tay làm bằng những sợi chỉ nhiều màu sắc, có lẽ là tâm linh của Cụ như là một sự hộ mệnh, bảo đảm cho cháu luôn bình an thì không hiểu do lúc nào đó sơ ý không cẩn trọng nên mình đã đánh mất quà tặng quý giá ấy. Vài năm sau, khi mình học cấp 3 thì Cụ qua đời, mình đã khóc rất nhiều. Nhớ về Cụ, mình nghĩ Cụ như một tấm gương sáng về nuôi dạy con cháu và khả năng nhìn người.
Tình thầy trò và ngọn lửa tri thức
Đến năm thi vào cấp 3. Mình thi 2 trường: Trường Trung học phổ thông huyện Lục Nam và Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Bắc Giang. Kết quả: Mình đỗ cả 2 trường. Lựa chọn trường nào đây ?
Ban đầu, mình thích học trường huyện để thoải mái đi lại từ nhà lên huyện. Môi trường nội trú mình ít được ra ngoài.
Nhưng khi đi tập trung được lần thứ 2, mình không còn tên ở lớp nữa. Quá bất ngờ, mình đi gặp cô giáo chủ nhiệm, cô bảo: em đi gặp cô hiệu phó. Gặp cô hiệu phó (cô Thoa, nếu mình nhớ không nhầm) thì cô bảo: Em đã được chuyển trường về Trường dân tộc nội trú tỉnh.
Lúc ấy, còn trẻ thơ nên mình không biết là do bố mẹ xin chuyển hay trường nội trú tỉnh thiếu chỉ tiêu nên lấy luôn mình về, chỉ biết rằng, mình nhập học sau các bạn cùng lớp 2 tuần. Lúc ấy, mình rất chán và muốn chuyển trường, bố cũng đã xuống động viên và xin chuyển cho nhưng không được.
Giai đoạn đầu chưa quen các bạn nên mình thấy lạc lõng. Sau khoảng thời gian 1 tháng mình quen dần và bắt đầu ổn định học tập.
Năm lớp 10, thày giáo dạy Sinh học có lẽ xem hồ sơ của mình tại trường nội trú huyện nên chủ động chọn mình vào đội tuyển sinh học.
Kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh Bắc Giang, mình đạt Giải Nhì – cao nhất trường. Và từ đây, mình cũng được các bạn, anh chị và thày cô ở trường “biết đến” nhiều hơn.
Cuối năm lớp 10, một lần ra hiệu sách, mình bắt gặp và mua cuốn sách: Hoá học vô cơ rất hay. Mình đã say sưa học và làm hết tất cả các dạng phản ứng và bài tập trong sách đó khi đến cuối kỳ 1 năm lớp 11. Nên quá trình học tập, cô giáo dạy hoá học rất giỏi của nhà trường – cô giáo Phan Hồng Thục đã chọn mình vào đội tuyển hoá học.
Trước khi vào lớp 10, mình đã được nghe anh trai kể, cô Thục dạy hoá rất giỏi. Điểm đặc biệt là khi lên lớp dạy, cô chỉ cầm hộp phấn lên dạy và giảng từ đầu đến cuối, không hề xem sách hay sổ giáo án. Mình thực sự đã khâm phục trí nhớ và kiến thức của cô trước khi bước chân tới cổng trường và luôn muốn được học tập từ cô.
Lúc được cô Thục lựa chọn vào đội tuyển hoá, thày giáo dạy sinh học cũng là thày chủ nhiệm đã nhiều lần động viên mình ở lại đội tuyển sinh học, giữa cô và thày, còn nhiều phen “tranh luận” và “thương lượng” ấy, cuối cùng thày cô thống nhất: Để em nó chọn, em chọn đội tuyển nào thì thày cô đều vui vẻ đón nhận.
Ngồi giữa thày chủ nhiệm và cô giáo, một đứa trẻ như mình phải đưa ra quyết định. Mình biết là mình chỉ được chọn một đội tuyển. Nên nếu mình chọn đội tuyển nào thì cũng sẽ có một thày hoặc cô có một chút thất vọng và thoáng buồn (là tự mình nghĩ vậy). Cuối cùng, mình lựa chọn đội tuyển hoá học ! Thực sự, mình đam mê những phản ứng hoá học và các dạng bài tập hoá học rất hay, cuốn hút mình.
Trong đội tuyển hoá học của nhà trường, cô giáo Phan Hồng Thục cho mình vào ôn luyện chung với cả đội tuyển hoá lớp 12. Và mình là người thường xuyên giải xong bài tập trước tiên của toàn đội.
Nên nhiều anh chị học lớp trên (lớp 12) đã mượn sổ ghi của mình để ôn luyện thi đại học. Năm lớp 11, tỉnh Bắc Giang không tổ chức thi học sinh giỏi. Đến năm mình lớp 12, mình đạt Giải Ba môn hoá học cấp tỉnh.
Nghĩ lại quãng thời gian đó, mình cũng thấy có chút tự hào chứ nhỉ ?
Nếu nói rằng thành tích của mình chỉ là kết quả của tự học thì hoàn toàn không đúng. Thật ra, phía sau những kết quả học tập ấy là bóng dáng của những người thầy, người cô tận tụy với học trò. Mình thực sự tự hào về hai ngôi trường nội trú được học, môi trường rèn luyện tốt và thày cô thực sự quan tâm học sinh. Tất cả những buổi học thêm, ôn luyện học sinh giỏi cho chúng mình, thày cô hoàn toàn vô tư vì tấm lòng thương yêu học trò vô bờ bến, thày cô không lấy chút tiền công nào.
Mình nhớ cô giáo dạy hoá của mình, cô lần trên bục giảng còn bị choáng gần ngã. Do chương trình dạy của cô quá nhiều. Và ấn tượng nhất là ngay cả khi gần bước vào kỳ thi đại học rồi, có hôm cô gọi đội tuyển gấp lên phòng ôn luyện. Cô nói: Tối qua, cô ngủ mơ thấy năm nay ra đề vào dạng bài tập này. Bây giờ trưởng thành mình mới thực sự thấy tấm lòng yêu thương học trò, tận tuỵ với công việc đã in sâu vào tiềm thức của cô.
Năm lớp 10, mình được phân vào lớp của thầy Trần Quốc Lập – vừa là giáo viên chủ nhiệm, vừa dạy môn Sinh học. Thầy cao gầy, giọng nói chậm rãi nhưng ánh mắt sáng và nghiêm khắc. Thầy hay bảo:
– Kiến thức là vốn liếng, nghèo đến đâu cũng không ai lấy tri thức của các em được. Các em ở đây đều vất vả, nhưng nếu chịu học, thì chính tri thức sẽ mở đường cho các em. Tương lai của các em do chính sự nỗ lực trong học tập của các em xây dựng.
Những lời ấy khắc sâu vào tim mình. Chính thầy đã phát hiện ra mình có tố chất với môn Sinh, rồi kiên nhẫn bồi dưỡng. Buổi chiều, khi bạn bè ra sân chơi bóng, mình ngồi lại trong lớp, nghe thầy giảng thêm về di truyền, tế bào, về từng chi tiết nhỏ trong hệ thống sinh học. Thầy cho mình mượn sách tham khảo, chỉ từng cách làm bài, luyện đề. Nhờ vậy, mình mới đủ tự tin bước vào kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và giành giải Nhì.

Cô Thục thường ngồi lại cùng chúng mình sau giờ học. Cô hay cho chúng mình luyện thêm những bộ đề nâng cao trong Bộ đề tuyển sinh đại học (thế hệ 8X, ai cũng biết bộ sách chất lượng này).
Một lần, khi mình về thăm cô và cô đã giới thiệu trước đội tuyển học sinh giỏi môn hoá của nhà trường hiện tại. Mình xúc động nói vài câu động viên các em. Và như muốn báo đáp công ơn cô trước thế hệ kế tiếp, mình nói: Nhờ ơn dạy dỗ của cô, em đã đỗ bác sĩ và bây giờ em vừa nhận chức Trưởng khoa. Cô giáo và cả lớp bất ngờ, ồ lên, và cả cô và trò ôm vai nhau, đều khóc.
Thực sự bây giờ nghĩ lại, mình vẫn rơi nước mắt vì tình cảm với thày giáo, cô giáo, bây giờ nghĩ lại vẫn thấy nghẹn ngào và biết ơn thày cô.

Nếu không có thầy Lập, chắc gì mình đã tin mình có thể giỏi Sinh. Nếu không có cô Thục, chắc gì mình đã dám dấn thân hết mình với Hóa học. Thầy cô không chỉ cho kiến thức, mà còn trao niềm tin: rằng một cậu bé nghèo vẫn có thể vươn lên nếu đủ nỗ lực.
Trong ký ức mình, hình ảnh thầy Lập với chiếc áo sơ mi bạc màu, ánh mắt hiền hậu; hay dáng cô Thục cặm cụi bên những tập đề Hóa viết tay, mãi là nguồn động lực để mình tiếp tục tự học sau này. Có lẽ nhờ những tấm gương ấy, mình mới hình thành thói quen học cả đời, không ngừng trau dồi từ chuyên môn y khoa cho đến kỹ năng ngoài chuyên môn.

Năm lớp 12, khi mình đang băn khoăn về con đường phía trước, thầy Trần Quốc Lập đã gọi mình ở lại sau giờ học. Thầy lặng lẽ rót chén trà, nhìn thẳng vào mắt mình rồi nói chậm rãi:
– Chu này, em học giỏi, lại có nghị lực. Nhưng thầy biết gia cảnh nhà em. Bố mẹ em đã kiệt sức khi nuôi anh trai cả học Đại học Thủy lợi Hà Nội, giờ còn gánh thêm em, chắc sẽ rất chật vật. Em có nghĩ đến việc chọn một con đường vừa học được y, vừa có sự hỗ trợ của Nhà nước không?
Mình ngạc nhiên:
– Thưa thầy, con đường nào ạ?
Thầy mỉm cười:
– Học viện Quân y. Vào đó, em được nuôi ăn học, được rèn luyện trong môi trường kỷ luật, ra trường lại có nghề vững vàng. Với nền tảng chăm chỉ và sự quyết tâm của em, thầy tin em có thể đứng vững.
Lời khuyên ấy như mở ra một cánh cửa mới. Từ trước đến giờ, mình chỉ nghĩ đơn giản là sẽ học đại học nào đó để thoát nghèo. Nhưng “Học viện Quân y” – hai từ ấy vang lên, đầy lạ lẫm nhưng cũng đầy hứa hẹn. Mình về kể lại cho bố mẹ. Ánh mắt cha mẹ ban đầu ngạc nhiên, rồi ánh lên tia hy vọng. Bởi họ hiểu, đây không chỉ là một con đường học tập, mà còn là lối thoát cho cả gia đình trong những ngày tháng chật vật cơm áo.
Từ đó, mình bắt đầu đặt mục tiêu thi vào Học viện Quân y. Mỗi bài học Hóa, Sinh hay Toán đều trở thành viên gạch lát đường cho ước mơ ấy. Có những hôm học đến nửa đêm, mệt rã rời nhưng mình vẫn nghĩ đến lời thầy Lập: “Học làm bác sĩ vừa giúp gia đình, quê hương và người bệnh, được mọi người trân trọng em ạ”. Và trong lòng, niềm tin ngày càng rõ rệt: con đường quân y chính là định mệnh của mình.
Kỳ thi tuyển sinh năm 2006 cũng là kỳ thi cuối cùng theo hình thức thi tự luận vào đại học tại Việt Nam. Để đỗ đại học thì thực sự khó, không như bây giờ. Kết quả thi của mình tại Học viện Quân y đạt 28 điểm, Đại học Kiến trúc Hà Nội đạt 24,5 điểm.
Mùa hè năm ấy, khi cầm giấy báo nhập học trên tay, mình ngỡ như giấc mơ. Không chỉ một, mà là hai: Đại học Kiến trúc Hà Nội và Học viện Quân y. Cả hai cánh cửa đều rộng mở trước mắt.
Mình nhớ đêm hôm ấy, căn nhà nhỏ vùng quê chìm trong ánh đèn dầu leo lét. Bố im lặng ngồi một góc, đôi bàn tay chai sần vẫn còn vương mùi đất ruộng. Mẹ nhìn mình, trong mắt vừa tự hào vừa lo âu. Anh trai cả lúc đó đang học Đại học Thủy lợi Hà Nội, tiền ăn học đã là gánh nặng quá lớn.
Mình ngập ngừng hỏi:
– Bố mẹ… con nên chọn trường nào?
Bố thở dài, giọng khàn đục:
– Con học trường nào cũng tốt. Nhưng nhà mình nghèo… Nuôi hai anh em học đại học cùng lúc, sợ không kham nổi.
Lúc ấy, mình hiểu. Đại học Kiến trúc Hà Nội – đẹp, hoa lệ, mang theo bao mơ ước tuổi trẻ. Nhưng đồng nghĩa là tự lo tiền ăn, tiền ở, tiền học. Ngược lại, Học viện Quân y – kỷ luật, gian khổ, nhưng Nhà nước nuôi ăn học, lại có nghề vững chắc, sau này không lo thất nghiệp.
Thầy Trần Quốc Lập từng dặn:
– Chu à, nếu em chọn Học viện Quân y, em sẽ vất vả hơn bạn bè. Nhưng con đường ấy phù hợp với người như em – kiên trì, chịu đựng, giàu nghị lực.
Mình lặng đi một lúc lâu. Rồi nhìn sang bố mẹ, mình nói khẽ mà dứt khoát:
– Con chọn Học viện Quân y.
Câu nói vừa dứt, mình thấy vai bố như trĩu xuống, nhưng đôi mắt sáng lên một niềm tin. Mẹ quay đi, lén lau giọt nước mắt. Còn mình, trong lòng vừa day dứt vừa kiên định: phải đi con đường gian khó, để gánh bớt nhọc nhằn cho bố mẹ, để đứng vững bằng chính đôi chân mình.
Từ giây phút ấy, số phận đã gắn mình với màu xanh áo lính và màu trắng tinh khôi của một người bác sĩ – một bác sĩ quân y trong lòng nhân dân, vì nhân dân.
Đọc tiếp: Con đường học tập trở thành bác sĩ của Doctor Chu
📞 Hotline: 0968 850 088
👉 Hãy đặt lịch hẹn với Bác sĩ Chu để được đồng hành trong hành trình hồi phục sức khỏe.
✨ Doctor Chu – bác sĩ của người nghèo, chuyên gia phục hồi chức năng được hàng ngàn bệnh nhân tin tưởng tại Bắc Ninh và Bắc Giang.
Tác giả Blog: Doctor Chu
Trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh, chức năng và phục hồi chức năng,
Bệnh viện Quân y 110.
Địa chỉ: Số 7, đường Trần Lựu, phường Vũ Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
Theo dõi các kênh mạng xã hội của Doctor Chu:
Youtube: Doctor Chu . Bác sĩ của người nghèo